Chiếm 61%; Nghiên cứu căn bản - KHXH 58 tỷ
Vẫn theo GS Hiển.Chiếm 9%; Hoạt động tương trợ NCKH 15 tỷ. Năm 2011 chỉ có 48 bài về XHNV/ tổng số 1. Cách quản lý đề tài NCKH giờ mang nặng tính hành chính. Theo bà Lan. Đổi mới công nghệ do doanh nghiệp thực hành. Có đến hơn 55% ban bố quốc tế có địa chỉ Việt Nam cốt tử do người nước ngoài thực hành.
Kinh phí còn lại chi hiệp tác sản phẩm (16 tỷ); Nhiệm vụ đột khởi hành sinh (65 tỷ) và nhiệm vụ phát triển công nghệ 103 tỷ. Cần công nhận lại mục tiêu căn bản của NCKH.
Ít công bố thuộc các ngành và môn có tác động nhiều đến quốc tế dân sinh. Cụ thể theo GS Hiển. Với cách quản này khó xuất hiện đỉnh cao trong học thuật mà còn tạo ra lỗ hổng cho những tiêu cực và suy thoái đạo đức trong khoa học. Nguồn vốn hoạt động của quỹ sẽ tạo điều kiện xây dựng môi trường nghiên cứu tiện lợi.
Phát triển năng lực nghiên cứu của các nhà khoa học trẻ. "Song song với việc xây dựng các ĐH đa ngành và phát triển nghiên cứu đa ngành. Số bài do các tổ chức quốc tế và nước ngoài chiếm 27 bài. Ban bố quốc tế của các ĐH Việt Nam chỉ đóng góp 55% về số lượng so với 92% ở Thái Lan (năm 2008). KHXH; Nghiên cứu khoa học.
Góp phần đào tạo nhân công khoa học và công nghệ. Tới đây sẽ có quy định xác định phân chia lợi nhuận của tác giả nghiên cứu trong trường ĐH.
Viện Hàn lâm KHXH 2 bài và 2 bài thuộc các viện khác. Trong đó. Bộ đang đề xuất có một số biên chế nghiên cứu khoa học trong các trường ĐH.
Có tính liên tục và kế thừa nhằm xúc tiến hoạt động NCKH trong các trường ĐH và viện nghiên cứu. Cần xem lại chính sách KHCN tuổi 2011-2015 tập kết vào hai Viện Hàn lâm mà xem nhẹ các trường ĐH" - lời GS Hiển.
Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Trần Văn Tùng cho biết. Từ năm 2014 nguồn vốn hoạt động của quỹ được quốc gia bảo đảm ít ra 500 tỷ mỗi năm (tăng 300 tỷ so với những năm trước).
Cần xây dựng các trung tâm nghiên cứu xuất sắc phát triển liên tục thành truyền thống ở các trường ĐH" - GS Hiển đề xuất. Nguyễn Hiền. Các ĐH trong nước có 17 bài. Hình thành các tập thể nghiên cứu mạnh có năng lực nghiên cứu ở trình độ quốc tế; nuôi dưỡng nhân kiệt nghiên cứu. Xin cho.
Quan tiền. Dù nguồn kinh phí tăng đem lại tín hiệu vui cho NCKH nhưng GS Phạm Duy Hiển (Viện Năng lượng Nguyên tử Việt Nam) cảnh báo hàng loạt điểm yếu trong ban bố quốc tế của Việt Nam so với khu vực.
Từ năm 2009-2012 quỹ đã tài trợ cho các lĩnh vực: nghiên cứu căn bản trong các lĩnh vực KHTN. Tại hội thảo hoạt động khoa học và công nghệ trong trường ĐH - phó Giám đốc Quỹ phát triển Khoa học và công nghệ nhà nước Đỗ Phương Lan cho biết.
Ngược lại các công bố về lý thuyết thường chiếm phần nhiều. Tạo điều kiện hỗ trợ cho tất tật các hoạt động nghiên cứu Ông Tùng cũng cho biết. Nghiên cứu về XHNV vừa ít vừa thiếu nhiều môn. Kết quả hoạt động trong 4 năm được bà Lan cho hay đã giải ngân được 664 tỷ/ 800 tỷ cho các chương trình: Nghiên cứu cơ bản - KHTN với kinh phí 407 tỷ.
Khi kết quả được chuyển giao tác giả được hưởng thu nhập có thể sống được.
Hình thành một số trọng điểm NCKH kết nối với các doanh nghiệp thực hiện chuyển giao kết quả nghiên cứu.
"Do đó. Song song. Chiếm 2%. 400 bài có địa chỉ Việt Nam.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét