Thứ Tư, 24 tháng 7, 2013

Tại sao Phật giáo 'biến mất' khỏi Ấn Độ?

Chú thích của người dịch:Ông Philippe Cornu là chủ toạ Đại học Phật giáo Âu châu, giảng viên tại Viện nhà nước tiếng nói và Văn minh Đông phương (Inalco) của Pháp.Ông cũng là một học giả thông thái về Phật giáo, dịch nhiều kinh sách từ các tiếng Tây Tạng, Trung Hoa..., Song song ông cũng trứ tác, viết báo và giảng dạy về Phật giáo.Một trong những công trình đáng kể của ông là Tự điển bách khoa Phật giáo.

Bài phỏng vấn của ký giả Cathérine Golliau với ông, đăng trên tạp chí lớn của nước Pháp làLe Point.

Le Point: Phải định nghĩaPhật giáonhư thế nào?

P. Cornu:Đó là con đường tâm linh nhắm mục đích tự giải thoát khỏi vô minh và nhầm lẫn, nguồn cội đưa đến thống khổ, và giúp đạt được Giác ngộ, tức nhân tiện dạng phanh phui được mọi ảo giác, và từ thể dạng đó sự thực tối thượng sẽ hiển hiện.Người ta thường xem Phật giáo là một tôn giáo, trong chiều hướng Phật giáo chủ trương một con đường đạo đức, một luận thuyết triết học, yêu cầu những lễ thức và cách thức tu tập ý thức trong mục đích giải phóng con người : thành ra cần phải đặt lòng tin nơi để bước vào con đường ấy.Tuy nhiên Đức Phật không phải là một vị trời, và Đạo Phật, còn gọi là Bouddha-darma (Đạo Pháp của Đức Phật) không phải là một tôn giáo thờ trời, theo ý nghĩa một vị trời sáng tạo.

Le Point: Có phải đấy là một phản ứng chống lại Đạo Bà-la-môn hay không?

P. Cornu :Đức Phật xuất hiện vào một thời điểm mà các bản kinh Vệ-đà của Đạo Bà-la-môn bị chỉ trích là chỉ biết chú trọng đến nghi lễ, một số người không chấp nhận góc cạnh ấy của Đạo Bà-la-môn đứng ra soạn thảo các kinh điển mới gọi là Upanisad, các kinh này quan hoài nhiều hơn đến sự đánh tháo cá nhân.Con đường của Đức Phật nằm trong bối cảnh diễn tiến đó của kinh điển Upanisad, tuy nhiên tính cách đặc thù trong luận lý và kinh nghiệm của Đức Phật khác hẳn các hình thức cải tiến của Đạo Bà-la-môn qua các kinh điển Upanisad như vừa kể.

Đức Phật chủ trương giải thoát các đau khổ bằng các diệt dục

Le Point: Đâu là những khác biệt đẵn cho thấy những điểm trái ngược giữa hai trào lưu đó?

P. Cornu :trọng điểm trong những lời giáo huấn của Đức Phật là tính cách vô thường của ắt mọi sự vật, sự kiện không hề có một “cái ngã” trường tồn, và những gì mà thường ngày người ta gọi là sự tương liên hay là sự tương tạo dựa vào nhiều điều kiện, nguyên tắc ấy cho thấy mọi hiện tượng chỉ có diễn đạt hữu bằng cách liên đới với nhau, những hiện tựng này làm điều kiện giúp cho những hiện tượng khác hiện hữu.

Tham vọng muốn kiểm soát mọi vật thể và lòng ước mơ chận đứng, bằng bất cứ giá nào, những chuyển động của vô thường, sẽ làm phát sinh những hiểu biết sai trái về thế giới này và do đó chỉ đem đến khổ cực mà thôi.

Tại sao lại như thế? vày quơ những hành vi của chúng ta đều nhắm vào ý đồ kiểm soát thế giới này và mọi sự hiện hữu, và sự găng đó nhất quyết sẽ tạo ra một hố sâu đồ sộ ngắn cách một bên là những gì chúng ta mong muốn được nhìn thấy và tin rằng những thứ ấy là hiện thực, và bên kia là bản thể thực sự của hiện thực.

Le Point: tuy vậy Phật giáo và Ấn Độ giáo đôi khi lại sử dụng một số ngôn từ giống nhau...

P. Cornu :Đúng thế, nhưng ý nghĩa thì lại khác nhau.Hãy lấy thí dụ chữ “karma” (nghiệp). Trong Đạo Bà-la-môn thuộc hệ thống kinh điển Vệ-đà, karma biểu trưng cho một hành vi mang tính cách lễ thức giúp hội nhập với thế giới linh.Đối với Đạo Bà-la-môn cải tiến trong hệ thống kinh điển Upanisad, thì chữ karma lại mang ý nghĩa về luân lý : tùy theo hành vi mang phẩm tính thiện hay ác, sẽ tạo ra một loại khả năng tiềm tàng, và chính khả năng ấy sẽ chín muồi khi tái sinh trong một kiếp sống thuận tiện hay bất tiện lợi về sau.

Ngoài ra, Ấn độ giáo lại chủ trương một hình thức định mệnh: chẳng hạn khi rơi vào một giai cấp nào thì phải tùy thuộc vào giai cấp ấy và không thể nào thoát ra được, vị karma đã quyết định như thế.

Trong khi đó đối với Phật giáo, karma là một hành vi, và đầu tiên là một ý đồ trong tiềm thức.Phật giáo phân biệt rõ rệt karma nguyên thủy làm nguồn cội và hậu quả phát sinh sau đó từ karma, đấy là hai thứ khác nhau không thể nhầm lẫn được.Sự nảy của hậu quả chẳng thể tránh khỏi, nếu ta không làm gì cả để hóa giải nó, và hơn thế nữa ta còn có thể thuần khiết hóa cả karma trước khi nó chín muồi.

Mặt khác, karma không< cưỡng ép >con người phải sống một cách thụ động trong một cấu trúc từng lớp đã quy định sẳn : mỗi cá nhân phải tự nắm lấy vận mệnh của mình để tự đánh tháo cho chính mình ra khỏi karma, vì đó là một thứ động cơ thúc đẩy gây ra khổ cực, cần phải được khắc phục.Người ta cũng có thể tìm hiểu theo phương cách tương tợ đối với chữ “samsara” (luân hồi).Chữ samsara mang một ý nghĩa giống nhau trong cả hai nền triết học Bà-la-môn và Phật giáo, tức có nghĩa là sự hiện hữu dựa vào nhiều điều kiện.

Nhưng đối với Ấn Độ giáo, con người chỉ có thể thoát ra khỏi samsara khi nào linh hồn hay “cái ngã” (atman) được đánh tháo để hội nhập với thể dạng Nhất nguyên vĩ đại.

Trong khi đó đối với Phật giáo, samsara đầu tiên là một sự quán nhận, nảy từ nhiều điều kiện, về một sự hiện hữu do karma và dục vọng của chính mình tạo tác, nên mỗi cá nhân chủ nghĩa phải tự đánh tháo chính mình ra khỏi cảnh giới luân hồi.Vì vậy, cần phải định nghĩa trở lại các ngôn từ trong từng trường hợp một.

Le Pòint : Phật giáo có kết nạp các vị trời của Ấn giáo hay không ?

P. Cornu :Có. Quờ quạng hậu cảnh huyền thoại của Ấn giáo đã được hấp thu vào Phật giáo.Nhưng ở đây cũng phải nhắc lại thêm một lần nữa, tuy Phật giáo đã hấp thụ nhưng thu nhận với ý nghĩa hoàn toàn dị biệt.Thật vậy, theo Phật giáo các vị trời đều được xem là thuộc vào cảnh giới samsara (luân hồi).Vi chính các vị trời vẫn còn vướng mắc trong sự lầm lẫn. Dù cho họ có một đời sống lâu dài đi nữa, nhưng khi karma đã cạn, họ sẽ rơi vào một cảnh giới khác của samsara.Họ không thể thoát khỏi thực chất có tính cách toàn diện của khổ cực.

Le Point : Nhưng vì sao nền triết học ấy chủ trương quãng sự giải thoát, lại còn cần đến các vị trời?

P. Cornu :Đức Phật không hề tìm cách bài bất cứ một thứ gì.Ngài chỉ đơn giản đặt mọi sự vật vào đúng vị trí của chúng.Các vị trời không phải là mục đích cũng không phải là những nhu cầu của Ngài, và cố nhiên không hề là một đối tượng cho sự nương nhờ.

Trong Phật giáo người ta dựa vào nguyên tắc của Giác ngộ, vào những lời giáo huấn đưa đến Giác ngộ, và vào tập thể những người đã chọn những lời giáo huấn ấy.Đấy là những gì mà người ta gọi là Tam Bảo: Đức Phật, Dharma (Đạo Pháp) và Sangha (Tăng đoàn).

Đức Phật là nguyên tắc của Giác ngộ, bởi vậy Ngài là một vị hướng dẫn; Dharma là những lời giáo huấn và cách thức tu tập mà Đức Phật đã khuyên bảo để giúp đưa đến Giác ngộ ; Sangha là tập thể Tăng đoàn, nhất mực họ là những tu sĩ, những vị hiền nhân.

Các vị trời được xem như những gì mang tính cách truyền thống lâu đời: người ta kính trọng các vị ấy như những người hàng xóm và xem họ là những miêu tả mang tính cách dân gian, những vị ấy rồi sẽ tự xóa mờ, dần dần từng chút một, trước một mục đích cao rộng hơn.Chính sự bao dung đó đã giảng giải sự thành công của Phật giáo.Đó là một nền triết học thật mềm mỏng đủ sức để thích ứng với quờ quạng mọi nền văn hóa.

Le Point: Phật giáo không chấp thuận giai cấp trong tầng lớp. Vậy có phải Phật giáo chống lại trật tự từng lớp của Đạo Bà-la-môn hay chăng ?

P. Cornu : Từ nguyên thủy, chủ đích của Đức Phật không phải là thay đổi trật tự xã hội.Nhưng chỉ để thiết lập một dòng tu sĩ, nhưng vì vị thế tự đứng ra bên ngoài thế giới này, nên dòng tu sĩ ấy đã mở cửa đón nhận ắt mọi cá nhân chủ nghĩa, thuộc tất thảy mọi cỗi nguồn và giai cấp, đúng hơn phải nói là Đức Phật đã tạo ra một sự dứt bỏ.

Le Point : Phật giáo sau đó đã phát triển thật mạnh mẽ trong đế quốc của vua A-Dục. Tại sao Phật giáo đã chủ trương niềm tin về “vô ngã” lại có thể phù hợp được với sức mạnh của oai quyền?

P. Cornu :Nền triết học đó không hề tìm cách thay đổi một từng lớp, nhưng chỉ chủ trương sự biến cải cá nhân trong lòng của mỗi cá nhân: nhưng nếu nên mà tầng lớp có thay đổi đi nữa, thì đó chính là nhờ từng cá nhân chủ nghĩa đã tu tập để tự biến cải tận đáy lòng của chính họ.

A-Dục là một vị đế vương xuất thân từ dòng dõi võ bị ; triều đại khởi sự bằng chém giết : và chính vào thời điểm đó ông ấy đã tinh thần được đau khổ là gì và đã quy y.

Nhưng chúng ta cũng không nên lầm lẫn: quả tình có một huyền thoại mạ vàng về sự kiện vua A-Dục quy y làm một Phật tử, và đã đem đến thăng bình và hạnh phúc cho toàn cõi vương quốc của ông.Trong đó có một phần sự thực, vì thực tế không hoàn toàn chỉ có màu hồng, dù sao đi nữa vua A-Dục cũng là một vị vua độc đoán...

Le Point :Làm thế nào để giảng giải Phật giáo đã chinh phục được cả Á châu lại biến mất ở Ấn Độ, trong khi Ấn giáo gần như chơi bành trướng ra khỏi Ấn Độ nhưng vẫn tiếp sinh động trên bán lục địa này?

P. Cornu :Phật giáo đối đầu với Ấn giáo, giống như là một hình thức cải tiến của Đạo Bà-la-môn khi Phật giáo tiếp xúc với Đạo này, Phật giáo ăn sâu vào các cấu trúc tầng lớp và được chính quyền nâng đỡ.Nhưng về sau Phật giáo đã bị các đạo quân Hồi giáo tiêu diệt khi đoạt cương vực Ấn Độ.Phật giáo chủ trương thiết lập những Đại học to lớn, chẳng hạn như Na-lan-đà, gồm hàng ngàn tu sĩ, đấy là nhưng nơi tụ họp đông đảo về nhân sự nên dễ bị xoá sổ.Ấn giáo dựa vào cấu trúc gia đình thành thử khó bị hủy diệt hơn.

Cũng nên cương trực mà nói: chính những đạo quân Hồi giáo đã làm cho Phật giáo biến mất ở Ấn Độ giữa buổi bình minh của thế kỷ XIII.

Hoàng Phong(lược dịch)


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét