Lo ngại bởi cuộc suy thoái dài nhất kể từ khi đồng euro lưu hành và tỷ lệ thất nghiệp kỷ lục, các lãnh đạo EU đã phải nới lỏng biện pháp khắc khổ trong vài tháng gần đây
Lãi suất cũng được duy trì ở mức kỷ lục gần 0% nhiều năm nay. Thậm chí, trong tháng 6, lần trước hết sau hơn một năm, nước này đã có lạm phát. Nhưng sau khủng hoảng, để không bị suy giảm như Mỹ và châu Âu, nước này vẫn liên tiếp tung kích thích dưới dạng các khoản cho vay khổng lồ.
Tốc độ suy thoái tại Italy và Tây Ban Nha đã giảm trong quý II. Merill Lynch bị Bank of America mua lại, còn AIG phải nhận hàng chục tỷ USD cứu trợ từ Chính phủ Mỹ. Ảnh: EPA Những diễn biến này đã khiến đồng euro mất giá trầm trọng. Hai đại gia sản xuất ôtô General Motors (GM) và Chrysler nộp đơn xin bảo hộ vỡ nợ trong cùng năm đó.
Ảnh: Washington Post Sau nhiều động thái, đến tận cuối năm 2009, khu vực đồng bạc chung châu Âu tuyên bố EU, trừ Hy Lạp và Tây Ban Nha, đã thoát khỏi suy thoái. Chương trình mua lại trái khoán hiện tại (QE3) đã được thực hành từ tháng 9 năm ngoái để bơm 85 tỷ USD mỗi tháng vào nền kinh tế. Với tăng trưởng quý III đạt 2,2%, nền kinh tế lớn nhất thế giới - Mỹ cũng đã qua đáy sau 4 quý tăng trưởng âm liên tiếp.
Trong khi đó, kinh tế Trung Quốc lại có nhiều dấu hiệu chững lại sau ba thập kỷ tăng trưởng cao. Các nền kinh tế khác như Nhật Bản, Singapore, Hong Kong (Trung Quốc), Đức, Pháp cũng cho biết đã ra khỏi thời kỳ tăm tối nhất. Để cứu vãn nền tình thế, ngân hàng trung ương các nước đã phải cắt giảm lãi suất, bơm tiền cho các công ty hay mua lại nợ xấu.
Tuy nhiên, động thái đó cũng không thể cản trở Nhật, EU, Mỹ, Nga và nhiều quốc gia khác trên thế giới rơi vào suy thoái trong quý IV năm đó.
Hệ quả là tỷ lệ cấp tín dụng trên GDP tăng từ 120% lên gần 200% trong gần 5 năm qua, nợ địa phương ngày một phình to và bong bóng bất động sản tạo ra hàng loạt thị thành ma trên khắp cả nước. Đầu năm nay, Trung Quốc còn khủng hoảng thanh khoản ngắn hạn sau khi thực hành thắt chặt tín dụng để kiểm soát hệ thống nhà băng ngầm.
Cơn động đất thực thụ nổ ra vào ngày 7/9 với việc hai đại gia cho vay thế chấp của Mỹ là Fannie Mae và Freddie Mac bị quốc hữu hóa. Síp là nước thứ 5 trong eurozone phải xin cứu trợ tài chính.
Với kết quả như vậy, "suy thoái kép" - mức ám ảnh các nhà quản lý cũng như chuyên gia kinh tế suốt vài năm đã không trở nên sự thực.
Thùy Linh - Nhật Minh. Nhu cầu nội địa yếu, thị trường Âu - Mỹ chưa phục hồi đã khiến cả tăng trưởng GDP, lạm phát, sản xuất và xuất khẩu của Trung Quốc liên tiếp sút giảm từ năm ngoái.
Ngân sách Mỹ tháng 6 lên cao nhất 5 năm và tỷ lệ thất nghiệp cũng giảm đáng kể so với gần 10% cuối năm 2010.
Cuộc chiến nâng trần nợ công năm 2011 còn khiến Mỹ lần trước hết bị hạ xếp hạng tín nhiệm. Nước này đã tăng trưởng 2,8% năm ngoái, cao hơn thời kỳ tiền khủng hoảng năm 2006 (2,7%). Sau đó, lần lượt Lehman Brothers, Washington Mutual tuyên bố phá sản. Để cứu vãn nền kinh tế, từ tháng 11/2008, FED đã phải liên tục tung ra các gói kích thích.
Tuy nhiên, thay vào đó lại là hàng loạt những cuộc khủng hoảng mang tầm quốc gia hoặc khu vực diễn ra trên khắp thế giới khi điểm yếu của mỗi nền kinh tế biểu lộ và bị khoét sâu.
Trong khi đó, sau khi tuyên bố thoát khỏi suy thoái từ cuối năm 2009, châu Âu lại gần như ngay lập tức sa lầy vào cuộc khủng hoảng nợ công đã bước sang năm thứ 5.
Từ sự suy thoái của thị trường nhà đất Mỹ với nguyên nhân được người ta nhắc đến nhiều nhất sau này là "cho vay dưới chuẩn" (tài sản thế chấp cho các khoản vay bất động sản không đủ đảm bảo trả nợ), cuộc khủng hoảng lan sang thị trường tài chính và rồi tới kinh tế toàn cầu.
5 năm khủng hoảng, người ta đã chứng kiến một nước Mỹ với những cuộc chơi tài chính rủi ro, lấn lướt cả kinh tế thực, một châu Âu ậm ạch với những khoản nợ công đồ sộ, Trung Quốc phát triển nóng và khó có khả năng "hạ cánh mềm", trong khi Nhật Bản vốn đã chật vật với bài toán tiêu dùng trong nước lại không may khi phải hứng chịu thảm họa kép động đất - sóng thần.
Khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 bắt đầu từ Mỹ. Những ngày cuối tháng 8, đầu tháng 9/2008, cuộc khủng hoảng kinh tế tối dạ nhất kể từ sau Thế chiến thứ II bắt đầu lan rộng. Các nhà nước tăng cường tung kích thích bằng các biện pháp tài khóa đã khiến thâm hụt ngân sách và nợ công tăng dần
Để ngăn tác động của khủng hoảng tài chính, tháng 11/2008, nước này đã chi gần 600 tỷ USD để kích thích kinh tế, từ đầu tư cơ sở hạ tầng đến an sinh từng lớp.
Trái ngược với cảnh ngộ tại Mỹ và châu Âu, trong những năm đầu của cuộc khủng hoảng, khu vực Đông Á – Thái Bình Dương lại là điểm sáng khi đóng góp tới 40% tăng trưởng GDP thế giới. Giới chuyên gia dự đoán khu vực eurozone có thể tăng trưởng dương trong quý II sau 6 quý liên tiếp co lại.
Khủng hoảng bắt đầu từ cuối năm 2009 tại Hy Lạp, sau đó lan ra toàn khu vực đồng euro. Niềm tin doanh nghiệp và đầu tư trong quý II/2013 đã được cải thiện.
Với những nghịch lý như vậy, theo Kinh tế trưởng của IMF - Olivier Blanchard cho rằng dù đã qua khỏi giai đoạn bạc nhất nhưng thế giới vẫn sẽ phải mất ít nhất 10 năm để lấy lại đà phục hồi như giai đoạn trước khủng hoảng. Nhận định này không phải là quá bi quan nếu nhìn vào bức tranh kinh tế toàn cầu hiện nay. Theo giới phân tách, nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới đang có nhiều dấu hiệu rơi vào "thập kỷ mất mát" như Nhật Bản thập niên 90, với các trình diễn.
Đặc biệt là Trung Quốc - cỗ máy tăng trưởng của thế giới với 9,6% năm 2008 và 9,2% năm 2009. Tại Mỹ , 5 năm sau khủng hoảng tài chính, nền kinh tế số một thế giới vẫn chưa hoàn toàn hồi phục. Hy Lạp, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Ireland và Síp đã phải xin cứu trợ quốc tế để tránh vỡ nợ. Chính sách thắt lưng buộc bụng của các nước trong khu vực, nhằm giảm thâm hụt và nợ công, cũng khiến tỷ lệ thất nghiệp tại Hy Lạp hay Tây Ban Nha luôn trên 25%.
GDP Hy Lạp thậm chí còn giảm tới 30% kể từ năm 2008. Tình hình tại sơn hà quạ mọc chỉ có dấu hiệu khởi sắc từ cuối năm 2012, khi Thủ tướng Shinzo Abe nắm quyền. Theo cựu chủ toạ Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED) - Alan Greenspan, đây là cuộc khủng hoảng "hàng trăm năm mới có một lần".
Ban lãnh đạo mới của nước này đã tuyên bố ưng tăng trưởng thấp để chuyển đổi mô hình kinh tế theo hướng dựa vào tiêu dùng. Những nền kinh tế châu Á, như Nhật Bản, Singapore hay Hong Kong (Trung Quốc) cũng thoát khỏi suy thoái tương đối sớm, hồ hết vào nửa cuối năm 2009.
Thành thử, hoạt động tại châu Âu đã có một số dấu hiệu khởi sắc. Thị trường nhà đất ấm dần, chứng khoán cũng liên tiếp lập kỷ lục trong vài tháng gần đây trước các số liệu lạc quan của nền kinh tế.
Các số liệu thương mại tại Đức cũng tăng mạnh trong tháng 6. Riêng năm 2009, 140 nhà băng Mỹ bị xóa sổ, GDP nước này cũng tăng trưởng âm 2,8%.
Nhóm chính sách kích thích kinh tế (Abenomics) mạnh mẽ của ông đã phát huy tác dụng. # Như tăng trưởng chậm, giảm phát và nợ xấu. Chưa giải quyết được tình trạng giảm phát liên tục trong gần hai thập kỷ, đầu năm 2011, Nhật lại lểu đểu vì thảm họa kép địa chấn - sóng thần, gây thiệt hại hàng trăm tỷ USD.
Dù vậy, kinh tế Nhật Bản sau đó lại liên tục gặp vấn đề. Nợ công của nước này hiện cũng cao nhất thế giới với 231% GDP, và kinh tế còn tăng trưởng âm quý III năm ngoái.
Kinh tế Nhật Bản tăng trưởng 3,6% trong quý II so với cùng kỳ. Một phần nguyên cớ bắt nguồn từ cơn động đất tài chính 2008. Trong 2 năm 2009 và 2010, Trung Quốc đã dần leo lên vị trí nền kinh tế số 2 thế giới.
Theo AP , đây là cuộc khủng hoảng có đà bình phục chậm chạp nhất kể từ Đại suy thoái những năm 1930.
Tuy nhiên, mãi đến thời kì gần đây, kinh tế Mỹ mới có một số dấu hiệu lạc quan. Thậm chí, một số nhà nước trong nhóm nền kinh tế mới nổi (BRICS), như Ấn Độ hay Trung Quốc chỉ bị giảm nhẹ tăng trưởng GDP trong hai năm 2008 và 2009, nhưng vẫn ở mức cao so với toàn cầu.
Đồng yen mất giá liên tiếp so với USD từ tháng 9 năm ngoái, khiến các hãng xuất khẩu lãi kỷ lục.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét