Theo Viện Nghiên cứu Hòa bình Quốc tế Stockholm, năm tài khóa 2012-2013, Ấn Độ vượt TQ trở nên quốc gia nhập cảng khí giới lớn nhất thế giới.
Tuy nhiên, tương lai chính trị thế giới, an ninh và ổn định khu vực châu Á-Thái Bình Dương lại phụ thuộc đáng kể vào Ấn Độ. Trong chuyến thăm tới New Dehli hồi tháng 6, Ngoại trưởng Mỹ John Kerry tái khẳng định lập trường của Mỹ hoan nghênh sự trỗi dậy của Ấn Độ, song song nhấn mạnh Mỹ ráng xúc tiến tiến trình này. Trong giai đoạn 2007-2011, Ấn Độ bỏ ra 12,7 tỷ USD mua khí giới nước ngoài, chiếm 10% tổng lượng khí giới du nhập toàn cầu; thời kỳ 2011-2015, ước tính, nước này chi 100 tỷ USD cho chương trình mua sắm quốc phòng.
Có lực lượng hải quân lớn thứ 5 thế giới, nhưng nước này vẫn ấp ủ kế hoạch 160 tàu, trong đó có 3 hàng không mẫu hạm vào năm 2022. Trong cộng tác quân sự giữa các nước lớn, yếu tố chính trị có vai trò quan yếu hơn nhiều so với bản thân nhu cầu thị trường.
Thậm chí, vũ khí Nga bắt đầu lạc bước ở nhà nước Nam Á này. Thái độ của chính khách New Dehli đối với Bắc Kinh không còn dừng lại ở sự “cảnh giác” mà ngày càng biểu thị tính tấn công.
Khác với tham vọng của TQ, mong muốn giành vị thế một đại cường hải quân của Ấn Độ ít cuộn sự để ý của thế giới.
Các chuyên gia quân sự nhận định, Nga đang mất dần thị phần cung cấp vũ khí tại Ấn Độ, từ “kiểm soát” 75% thị trường như bây giờ sẽ chóng vánh giảm xuống 50% trong tương lai gần. Ấn Độ không phải ngoại lệ khi có đến 95% tổng giao thiệp hàng hóa, 75% giá trị đàm luận thương mại bên ngoài cùng hơn 70% nguồn du nhập dầu mỏ thực hiện qua đường biển.
Tùng Dương. Với Mỹ, gia tăng mâu thuẫn Ấn-Trung có lợi cho Mỹ, khi Washington xác định New Dehli là yếu tố có vai trò lớn trong chính sách “tái cân bằng châu Á”. Với Ấn Độ, quan hệ Ấn-Trung diễn biến ngày một găng, nhất là ở biển Đông - nơi thuyết giáo “Liên châu” của TQ đụng đầu chính sách “Hướng biển” của Ấn Độ vốn trù định sự xích lại gần nhau giữa Ấn Độ và các nước Đông Nam Á.
New Dehli muốn ưng chuẩn các hiệp đồng nhập cảng vũ khí từ Washington nhằm củng cố quan hệ đối tác quân sự với Mỹ, từ đó ngăn chặn TQ.
Để bảo vệ ích lợi, Ấn Độ tham vọng thiết lập hải quân mạnh cả về khả năng vươn xa, vươn rộng và vững bền. Ngoài ra, chuyển nhượng vũ khí giúp cộng tác quân sự hai nước thêm thắt chặt. Điều này đồng nghĩa với đòi hỏi kỹ thuật cùng nguồn cung vũ khí đổ về Ấn Độ ngày càng lớn, và đối tác Nga truyền thống là chưa đủ. Theo báo cáo của Lầu Năm Góc, năm tài khóa 2011- 2012, Ấn Độ là khách hàng nhập cảng khí giới lớn thứ ba của Mỹ với các giao kèo trị giá 4,5 tỷ USD.
Hiệp tác quân sự chưa từng có trong lịch sử giữa Mỹ-Ấn Độ khởi hành từ nhu cầu về địa-chính trị trong thực tiễn, chứ không hoàn toàn do tính năng, giá cả vũ khí quyết định.
Thuyết “Mối đe dọa TQ” cũng là căn nguyên khiến Ấn Độ thực thi mạnh mẽ chính sách “Hướng biển”.
Các hiệp đồng chuyển nhượng khí giới của Washington cho New Dehli trước tiên là nhằm bao vây TQ, điểm này là cùng chí hướng với Ấn Độ. Điều này miêu tả qua sự phát triển mạnh mẽ hiệp tác quân sự Ấn Độ-Mỹ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét