Vậy là, cùng một đối tượng, hiện diện ở Việt Nam trong hơn 40 năm, trong những không gian đọc khác nhau, nhìn nhận về Mrożek đã có những chuyển đổi, theo cùng nhu cầu nhận thức và thưởng thức văn học. 5. ” Đó là lời kết của truyện Nghề trầm mình.
Nhưng khi tiếng cười vừa ngưng lại, thì nỗi buồn nhen rồi trào dâng. Gần đây nhất, tháng 5/2013, tập truyện Con voi [Tuyển tập 85 truyện ngắn Mrożek] của dịch giả Lê Bá Thự được Phương Nam và Nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành, trên cơ sở phát triển từ tập 50 truyện ngắn Sławomir Mrożek (Nhà xuất bản văn học, 2002). Mrożek là người bắt bệnh cho xã hội Ba Lan hiện đại, ông tin vào sự phản biện, vào sự độc lập trong suy nghĩ.
Có thể nói, Mrożek đã du hành đến Việt Nam gần nửa thế kỷ. Điều gì đã khiến Mrożek du hành tới Việt Nam chỉ mươi mười lăm năm sau khi ông khẳng định được danh tiếng của mình ở Ba Lan và châu Âu? Và vì sao lại là truyện ngắn chứ không phải kịch? Có lẽ sự hợp nhất trong phong cách trào lộng ở thảy các loại thể mà Mrożek sáng tạo, với tính chất humour đặc trưng, khả năng dùng ngôn ngữ tinh tế và kỹ thuật giễu nhại điêu luyện, quờ quạng hợp thành một phúng dụ về sự phi lý của cõi đời, kiếp người, mà từng lớp Ba Lan chỉ là một trường hợp, đã đưa tác phẩm của ông vào tầm quan sát của dịch giả Diễm Châu.
Mrożek viết khoảng 40 vở kịch, đặc biệt với Tango (1964), ông đã tạo lập được tiếng tăm của mình trong dòng mạch những sáng tạo văn chương phi lý vào nửa sau thế kỷ XX. Nhưng giữa bối cảnh văn hóa xuất hiện dịch phẩm Mrożek của Nguyễn Hữu Dũng và Lê Bá Thự, dẫu chỉ cách nhau mươi năm, cũng có những thay đổi đáng để ý.
Qua thời Nguyễn Hữu Dũng, thể loại được nhấn mạnh ở khía cạnh nội dung, khi được thêm định ngữ để trở thành “truyện châm biếm”.
Tiếng cười trong truyện Mrożek, thành thử, dù hài hước hay mỉa mai hay châm biếm, đều kéo theo ở phía bên kia của nó tiếng khóc. Ở Việt Nam, Mrożek lại được biết đến đẵn với nhân cách nhà văn viết truyện ngắn trào lộng, ngay từ rất sớm, và cho đến tận hiện nay. Sau Diễm Châu hai mươi năm, bản dịch của Nguyễn Hữu Dũng dường như lại xuất hiện trong một khung cảnh văn hóa khác.
Đọc truyện, theo đó, người đọc trước hết được trải nghiệm tiếng cười. 2. 1. Rất ít khi đó là tiếng cười hí hước, mà cốt yếu là tiếng cười mỉa mai, châm biếm. Thêm nữa, bởi với một dịch giả tài năng không chỉ nằm lòng văn học phi lý, thì một Mrożek của Tango đến từ Ba Lan xã hội chủ nghĩa bóng gió (hay từ một nhà văn Ba Lan đang lưu vong tại Pháp), có thể là một dấu chỉ quan yếu cho việc truyền dẫn tới bạn đọc Việt Nam.
Thậm chí, hình thức “phản ngữ” để cất tiếng trào phúng cũng phần nào lép vế hơn so với các hình thức sử dụng ngôn ngữ giễu nhại kết hợp với hình tượng nghệ thuật kệch cỡm, lố lỉnh để tạo hiệu ứng đả kích chua cay.
Sự san sẻ giữa hai dịch giả, có nhẽ đều ở góc cạnh giá trị tư tưởng và hào kiệt nghệ thuật độc đáo của Mrożek.
Tập 50 truyện ngắn Sławomir Mrożek của Nhà xuất bản văn chương cũng có kèm theo phụ đề: “Truyện ngắn, truyện cực ngắn chọn lọc”, trước khi trở về với phụ đề quen thuộc “Tập truyện ngắn” trong lần xuất bản bổ sung của Phương Nam và Nhà xuất bản Hội Nhà văn.
Ông muốn người ta cất ngôn ngữ từ sự độc lập tự chủ ấy, dù thuần tuý có khi chỉ là một phát hiện giản dị mà không đơn giản: “Tin ngay tức khắc bảo đó là ‘vụ tự tận’, còn tôi thì tôi bảo, đó chẳng qua là một vụ tai nạn.
Năm 1990, một bản dịch Con voi từ nguyên bản tiếng Ba Lan của dịch giả Nguyễn Hữu Dũng cũng được ban bố tại Nhà xuất bản Tác phẩm mới. Trong cái nghề tự sát, đôi khi cũng xảy ra tai nạn chết người. Sławomir Mrożek (1930) được biết đến với nhân cách họa sĩ biếm họa trước khi trở thành kịch tác gia, nhà văn trào phúng Ba Lan nức danh thế giới.
Với Mrożek, đặc trưng viết ngắn đọng lại ở cái nhìn mang tính phúng dụ về đời sống, về nghệ thuật, làm thành những tác phẩm nhẹ-nhõm-sâu-cay khi cất tiếng cười giữa cuộc đời.
Nó khiến người đọc phải nghĩ suy, chua xót và ăn thua. Bên cạnh tiếng cười trào lộng, có một bộ phận đáng kể những truyện của Mrożek được viết theo một văn pháp khác.
Để ngay cả khi, nhiều ít những kinh nghiệm nghệ thuật của Mrożek có thể bị bỏ lỡ hay đã bị vượt qua, thì với nhiều khúc quành trong đời sống dịch thuật văn học Việt Nam, ông vẫn hiện diện như một chỉ dấu lịch sử để văn học Việt Nam soi rọi vào chính nó. Có thể hi vọng những tác phẩm này như là những viết ngắn , còn được định danh bằng các tên gọi khác như truyện cực ngắn (nếu hình dung đấy là diễn ngôn truyện kể), là tiểu luận (nếu mường tượng đấy là các diễn ngôn nghị luận).
Nó được bật lên bởi sự lố bịch của nhân vật, sự hài hước của các chi tiết sáng ý, sự bất ngờ của các sắp đặt khéo léo.
3. Gọi là viết ngắn để cốt yếu để nhấn mạnh đến thuộc tính giới hạn của tự sự, với sự gọn nhẹ của số lượng ngôn từ và khả năng bao quát ý tưởng, trong việc bao gộp thuộc tính kể việc và nghị sự, mà sự phân tách nhiều khi là bất khả.
Nó có trào phúng nhưng không hẳn/chỉ là trào phúng, thậm chí độc lập với chức năng phúng gián. Có thể đọc được hàng loạt các truyện ngắn của Mrożek từ ý kiến này. Với riêng Nguyễn Hữu Dũng, đấy còn là ý hướng giới thiệu về nền văn chương Ba Lan, mà trước Mrożek, là những Henryk Sienkiewicz, Tadeusz Dolega Mostowicz, Helena Mniszek,… Ở góc cạnh thứ hai này, Nguyễn Hữu Dũng san sớt với dịch giả đến sau là Lê Bá Thự, khi cả hai ông đều là những dịch giả dịch văn chương Ba Lan từ nguyên ngữ.
Trước tiên, ở thời kỳ Diễm Châu chuyển dịch, đó đơn thuần chỉ là “truyện” trong sự biện biệt với thơ và kịch.
4. Phẩm tính phi lý không được nhấn mạnh mà thay thế vào đó là phẩm tính trào phúng: tập sách của Nhà xuất bản Tác phẩm mới có thêm phụ đề “Tập truyện châm biếm”. Ở đấy, nhận thức sâu sắc cõi đời phi lý, sự dối trá của lòng người, sự lừa lật của quyền lực, Mrożek cất tiếng cười châm biếm, lật tẩy dung mạo khả ố của kẻ cai trị, song song cất tiếng cười mỉa mai cả nạn nhân của nó, những người chấp thuận và/hoặc chịu đựng thỏa hiệp với đời sống tha hóa ấy.
Truyện của Mrożek quyến rũ người đọc trước nhất ở tính cách trào lộng. Và ở mỗi thời đoạn, ông đều mang đến cho người đọc Việt Nam ít nhiều những nhận thức và trải nghiệm mới mẻ.
Ngoài tính năng sản của tác phẩm Mrożek, sự đổi thay trong kinh nghiệm thẩm mỹ của người Việt Nam cũng làm cho một số vấn đề trong tác phẩm của ông được nổi trội lên ở mặt này hay mặt khác, khi là tính chất cách mạng xã hội, khi là hiệu quả nghệ thuật tự sự, khi là phương thức tiếp cận nghệ thuật về con người và tầng lớp.
Đến thời Lê Bá Thự, định ngữ này lại được thay thế để thành “truyện rất ngắn”, một thể loại mới được biết đến ở Việt Nam, như một cộng hưởng để theo đó, hy vọng viết ngắn có thể trở thành thể loại ưu trội trong văn học Việt Nam thế kỷ mới. Năm 1969, ở Sài Gòn, dịch giả Diễm Châu đã ban bố bản dịch Con voi (Słoń , 1957) tại Nhà xuất bản Trình Bầy, trước cả bản dịch sang tiếng Anh ba năm: The Elephant (Greenwood Press, 1972).
Một lời kết xuất sắc, cho nhiều hơn một chấm dứt truyện. Mrożek cũng thành công với truyện ngắn và tiểu luận, nơi miêu tả nhiều quan điểm sâu sắc của ông về nghệ thuật và thế cuộc.
Tính cách trào lộng, do đó, giảng giải cho việc dễ dàng đính thêm phụ đề “Truyện châm biếm” vào bản dịch Con voi , khi nó được hiểu như là một dòng mạch phát triển khá mạnh mẽ trong văn học Việt Nam truyền thống.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét