Thứ Hai, 7 tháng 10, 2013

Gắn nghiên cứu căn tiên phong bản với triển khai vận dụng vào thực tại đời sống.

Với nguồn nhân lực khoảng 300 người, trong đó có hơn 20 GS và PGS, ba TSKH, hơn 60 TS

Gắn nghiên cứu cơ bản với triển khai ứng dụng vào thực tế đời sống

Cùng với nghiên cứu cơ bản, Viện đã tích cực triển khai vận dụng các kết quả nghiên cứu vào sinh sản, kinh dinh. Nghiên cứu về vật liệu truyền thống và vật liệu mới, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam (VAST) có các đơn vị như Viện Khoa học nguyên liệu vận dụng tại TP Hồ Chí Minh, Viện Hóa học, Viện Nghiên cứu và vận dụng công nghệ Nha Trang cũng như một số khoa thuộc các Trường đại học Khoa học thiên nhiên, Đại học Bách khoa Hà Nội.

Nhưng phối hợp nhịp nhàng giữa nghiên cứu cơ bản, đào tạo nhân công chất lượng cao và khai triển áp dụng các kết quả nghiên cứu vào sản xuất, kinh doanh thì Viện Khoa học vật liệu (IMS) làm được nhiều việc hơn cả.

Phân viện khoa học vật liệu tại TP Hồ Chí Minh khoảng 10 năm trở lại đây, đã nghiên cứu thành công công nghệ chế tạo nhiều loại vật liệu áp dụng có hiệu quả hoặc có triển vọng áp dụng rộng rãi.

Công nghệ Na-nô, một lĩnh vực còn non trẻ ở nước ta, nhưng viện đã đi tiền phong nghiên cứu cách đây hơn 10 năm do sự đề xướng của GS, Viện sĩ Nguyễn Văn Hiệu. Với sự nỗ lực không ngừng trong nghiên cứu và sáng tạo, từ năm 2005 đến nay, hàng ngũ cán bộ của IMS đã có hơn 200 công trình khoa học được công bố trên các tùng san quốc tế có uy tín.

NGUYỄN KHÔI. Từ năm 2006, nhất là năm năm gần đây, đội ngũ của IMS đã khai triển, thực hiện 20 đề tài cấp quốc gia thuộc các chương trình khoa học và công nghệ trọng tâm, chương trình nghiên cứu căn bản định hướng ứng dụng.

Đến nay, tuy chưa đạt được thành tựu lớn, song IMS đã chủ động nguồn mẫu cho nghiên cứu căn bản và các nghiên cứu định hướng vận dụng trong nông - y - sinh học, năng lượng tái hiện và bảo vệ môi trường. Nhất là quan hoài việc tìm ra nguyên liệu hấp phụ cấu trúc Na-nô để xử lý ô nhiễm nước sinh hoạt, vật liệu xúc tác Na-nô hoạt động ở vùng nhiệt độ thấp dùng xử lý ô nhiễm môi trường khí.

Nhờ có phòng thử nghiệm trọng tâm nhà nước về vật liệu và linh kiện điện tử (đầu tư 55 tỷ đồng), IMS triển khai, thực hiện các nghiên cứu về vật liệu mới, vật liệu tiền tiến mà trong nước và thế giới quan hoài. Biên chế ở 26 đầu mối phòng, trọng tâm và doanh nghiệp, IMS hội tụ vào các lĩnh vực nguyên liệu và linh kiện điện tử, nguyên liệu và linh kiện quang học, quang điện tử và quang tử; nguyên liệu kim loại và nguyên liệu tổ hợp; vật liệu và công nghệ Na-nô; nguyên liệu có tính năng đặc biệt (siêu cứng, chịu mài mòn, chịu nhiệt độ cao).

Trong đó, phải kể đến các vật liệu xúc tác xử lý khí thải, vật liệu Aluwat xử lý nước sinh hoạt bị nhiễm ô-xít sắt; thiết bị lọc nước mặn thành nước ngọt bằng phương pháp thẩm thấu ngược phục vụ đời sống của người dân khu vực Trung Bộ và đồng bằng sông Cửu Long.

Mặt khác, IMS vinh diệu được Đảng, quốc gia hai lần trao tặng giải thưởng quốc gia về khoa học và công nghệ cũng như nhiều giải VIFOTEC. Đồng thời, mở rộng hoạt động nghiên cứu về công nghệ tuyển khoáng, công nghệ chế biến tinh khoáng sản để nâng cao giá trị mặt hàng xuất khẩu.

Gần đây nhất (năm 2011 - 2012) IMS là đơn vị chủ trì dự án hợp tác quốc tế về kỹ thuật chiếu sáng tùng tiệm năng lượng được khai triển tại khá nhiều địa phương trong cả nước. 000W không chỉ được dùng cho đồng bào dân tộc thiểu số vùng cao Bắc Cạn, Lào Cai mà còn được một tổ chức nhân đạo quốc tế giao kèo sinh sản hàng nghìn máy để cung cấp cho các vùng khó khăn ở châu Á và châu Phi.

Sản xuất vật liệu pô-li-me phục vụ sản xuất nông nghiệp tại Viện Hóa học. Ở mảng vật liệu truyền thống các nhóm nghiên cứu của IMS đi sâu phát triển các nghiên cứu về kim loại, hợp kim có tính năng đặc biệt (như siêu cứng, chịu mài mòn, chống chịu nhiệt độ cao).

Viện đã và đang thực hiện 51 đề tài nghiên cứu cơ bản thuộc quỹ phát triển khoa học - công nghệ nhà nước (NAFOSTED); gần 20 đề tài thuộc bảy hướng ưu tiên của VAST, và một số đề tài, dự án hiệp tác quốc tế theo Nghị định thư.

Từ đây, IMS đang thúc đẩy các hoạt động cấp thiết để sớm thành lập một trung tâm khoa học và công nghệ Na-nô tiền tiến đạt trình độ khu vực và quốc tế, theo chiến lược phát triển khoa học và công nghệ Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020 như Thủ tướng Chính phủ đã chuẩn y. Đặc biệt, tro bay (làm phụ gia) được nghiên cứu, sinh sản từ xỉ than thải của các nhà máy nhiệt điện của IMS đã phục vụ thiết thực cho xây dựng công trình thủy điện Sơn La trên sông Đà.

GS, TS Nguyễn Quang Liêm, Viện trưởng IMS cho biết: Kể từ năm 2008, viện mở mang lĩnh vực nghiên cứu, hình thành được một số nhóm khoa học khá mạnh, vừa nghiên cứu căn bản định hướng vận dụng, vừa tôn trọng tổ chức triển khai và chuyển giao các kết quả nghiên cứu vào thực tiễn đời sống. Đó là nghiên cứu, chế tác nam châm đất hiếm NdFeB áp dụng vào sinh sản máy phát thủy điện nhỏ và các máy tuyển từ được sử dụng khá rộng rãi trong công nghiệp sinh sản vật liệu ở nước ta.

Chả hạn như nghiên cứu cấu trúc, tính chất quang điện tử và quang tử, tính chất điện - từ của các loại nguyên liệu. Riêng sản phẩm máy phát thủy điện nhỏ với ba loại công suất 200W, 500W và 1.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét