Thứ Hai, 7 tháng 10, 2013

'Mỹ phẩm trí cá biệt óc' và khuynh hướng phổ cập đại học.

Nói theo ngôn ngữ hiện tại, các thượng khoa là các khoa chuyên ngành, dạy nghề, còn hạ khoa là khoa giáo dục tổng quát, có mục đích khai sáng

'Mỹ phẩm trí tuệ' và xu hướng phổ cập đại học

Đây là một chức năng tương đối mới. Chức năng này mới chỉ trở Tác giả Mỹ Chico Harlan, trong bài viết “Vietnamese teens' thirst for college outpaces country's educational system” trên tờ Washington Post, so sánh rằng với dân số gần 89 triệu dân, Việt Nam có chưa tới 400 trường ĐH và CĐ, trong khi Mỹ, với dân số 310 triệu, có tới hơn 4.

Ngày này, trong nền kinh tế kiến thức, trường ĐH trở nên một sực quan trọng, nếu không nói là quan yếu nhất, của quá trình sản xuất. Trong bài trả lời phỏng vấn VietNamNet, TS Ngô Tự Lập đã nhận định “thiên hướng phổ cập ĐH không phải là tình cờ; nó phản ánh những thay đổi sâu sắc về thực chất và chức năng của trường ĐH”.

Thật là vô lý khi chúng ta một mực đòi hỏi mọi sinh viên ra trường phải làm đúng ngành nghề đào tạo. Trước kia, trong nền kinh tế truyền thống, nhiệm vụ của đại học là chuẩn bị cho quá trình sản xuất bằng cách đào tạo nhân lực.

Nhiều người đã có bằng cấp và việc làm tốt vẫn đăng ký học các chuyên ngành khác nhau ở bậc đại học và sau ĐH.

Ở Hàn Quốc, do truyền thống, nhiều đàn bà ngừng đi làm sau khi lập gia đình nhưng vẫn theo học tại các trường ĐH. Học ĐH vì sự phát triển trí não cá nhân chủ nghĩa như vậy có thể gọi là “mỹ phẩm trí tuệ” để so sánh với “mỹ phẩn thân thể”. Ảnh Lê dũng mãnh khuynh hướng phổ cập ĐH không phải là tình cờ; nó đề đạt những thay đổi sâu sắc về bản tính và chức năng của trường đại học.

Xin lưu ý rằng ở Hàn Quốc, có tới 81 - 84% học trò tốt nghiệp phổ quát học lên ĐH. Mục đích đốn của giáo dục đại học ở Trung Hoa và Việt Nam, chả hạn, là đào tạo quan cho bộ máy cai trị được xây dựng trên nền tảng đạo nho.

Tuy nhiên, theo Kant, phần lớn nhân loại không có khả năng sử dụng lý trí một cách tự do như thế. Chức năng thứ ba của ĐH là chức năng sản xuất    , gắn liền với sự hình thành và lớn mạnh của nền kinh tế kiến thức. Đối với Kant, lý trí là một năng lực phổ quát mà nếu được dùng tự do có khả năng giúp con người khám phá thế giới và hành động đúng đắn, hợp với quy luật thiên nhiên.

Điều này cũng na ná như việc làm đẹp. Xã hội càng phát triển, con người càng có nhu cầu hiểu biết, không phải để trở nên “nhân công chất lượng cao”, không phải để tìm công ăn việc làm, mà nhằm tự hoàn thiện. Trong một xã hội có trình độ phát triển thấp, việc làm đẹp là xa xỉ đối với đại phần nhiều người dân. Nhu cầu về “mỹ phẩm trí tuệ” đang tăng lên không ngừng tại hồ hết các nước và việc đáp ứng nhu cầu ấy thúc đẩy mạnh mẽ khuynh hướng phổ cập ĐH và trên thực tế biến giáo dục thành một ngành dịch vụ đầy hứa.

Trường ĐH bảo đảm việc sinh sản ra sản phẩm hoàn chỉnh, còn nhà máy chỉ có nhiệm vụ nhân văn các sản phẩm hoàn chỉnh ấy mà thôi. Như chúng ta đều biết,    chức năng trước hết, thường được nói đến nhất, của trường đại học là dạy    Trong nghiên cứu của mình về giáo dục ĐH của các nước cựu xã hội chủ nghĩa Đông và Trung Âu, tác giả Marek Kwiek cho biết: năm 1989, số học sinh phổ biến học lên đại học là dưới 10% ở Albania và Romania, giữa 10% và 15% ở Hungary, Slovakia phần lớn các nước cộng hòa Trung Á của Liên Xô cũ (Kyrgizia, Tajikistan, Turmenistan, Uzbekistan), giữa 15% và 20% ở Croatia, Cộng hòa Czech, Belarus, Macedonia, Moldova và Ba Lan, giữa 20% và 25% ở Belarus, Bulgaria, Latvia, Russia, Slovenia và Ucraine – và tỷ lệ cao nhất là ở hai quốc gia nhỏ vùng Baltic – Estonia (36%) và Lithuania (28%).

Vậy bản chất và chức năng của giáo dục ĐH đã đổi thay như thế nào?  VietNamNet  xin giới thiệu phân tích của TS Ngô Tự Lập.

Đối với các ngành sinh sản có công nghệ cao, các công đoạn sản xuất quan trọng nhất - nghiên cứu, thiết kế và thí nghiệm – đều được thực hành cốt tử ở trường đại học. TS Ngô Tự Lập. Các trường đại học trung thế kỉ phương Tây, như Kant biểu lộ trong “Xung đột giữa các khoa”, có ba Thượng khoa là Thần học, Luật học và Y học và một Hạ khoa, đó là Triết học (các ngành khoa học từng lớp và nhân văn).

Nghề     hay nói theo cách của chúng ta hiện tại là “đào tạo nhân công”. Các trường ĐH Trung cổ phương Đông cũng có bản tính dạy nghề hao hao. Nhu cầu làm đẹp dẫn đến sự hình thành của cả một nền kinh tế làm đẹp.

" Ý tưởng của Kant được Humboldt hiện thực hóa lần trước nhất tại Berlin. Một thập niên sau đó, năm 1999, nhiều nước đã có tỷ lệ tuyển sinh trên 40%: Estonia (45%) và Lithuania (40%), Ba Lan (43) và Slovenia (51%)” (Marek Kwiek, 2008).

Trường ĐH Khai sáng là ĐH tinh hoa. 400 trường. Chức năng thứ tư của trường ĐH là chức năng phát triển cá nhân. Khoa Triết học, ngược lại, bị coi là hạ chỉ vì nó không dạy bất kỳ điều gì khác ngoài việc sử dụng lý trí một cách tự do.

Vẻ đẹp còn diễn đạt ở cả phương diện ý thức, đặc biệt là về mặt trí tuệ. Thành quan yếu trong thời kì gần đây, đặc biệt ở các tầng lớp đã đạt đến một trình độ phát triển nhất thiết.

Các Thượng khoa được gọi là thượng chỉ vì chúng nằm trong mối quan hoài của quyền lực quốc gia: các Thượng khoa dạy người dân tuân theo các quy tắc từng lớp, tức thị đào tạo các thần dân, những người thừa hành. Ông gọi họ là những người vị thành niên về trí não. Chức năng thứ hai của ĐH là chức năng Khai sáng,    gắn liền với thực chất của ĐH hiện đại mà cha đẻ là Immanuel Kant.

Nhưng nhu cầu làm đẹp không chỉ dừng ở các khía cạnh vật chất, hữu hình như vậy. Số liệu của Worl Bank cho biết tỷ lệ sinh viên so với dân số của Việt Nam là 13% (năm 2006), thấp hơn rất nhiều so với các nước phát triển, như 70% tại Mỹ, Norway, Australia, hay giữa 70%-80% ở Phần Lan, New Zeland và Sweden (Kwiek Marek, 2008). Nhưng khi từng lớp trở nên no đủ hơn, việc làm đẹp trở thành phổ quát.

Vì lẽ đó, nhà nước đặc biệt quan hoài và thường xuyên can thiệp vào nội dung giảng dạy của các thượng khoa, trong khi nói chung để cho các giáo sư triết học toan tính nội dung giảng dạy của khoa mình. Tác giả này cũng cho biết, tỷ lệ sinh viên so với dân số của Việt Nam chỉ bằng một nửa của Thái Lan và một phần ba của Hàn Quốc.

Theo Kant, chức năng chính của đại học là khai sáng, tức thị giúp người học thoát khỏi tình trạng vị thành niên về trí tuệ để "sử dụng tri thức của mình là không cần sự hướng dẫn của người khác.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét